Louis Pasteur – Gregor Mendel Và Cuộc Cách Mạng Sinh Học, Y Khoa

Giới thiệu sách Louis Pasteur – Gregor Mendel Và Cuộc Cách Mạng Sinh Học, Y Khoa

Louis Pasteur: Đại Ân nhân của Nhân loại – Gregor Mendel: Cha đẻ của Di truyền học hiện đại

Hai nhà sinh học khổng lồ của thế kỷ 19, rất trùng hợp, cùng sinh năm 1822, cùng nêu lên những định luật ĐẦU TIÊN của sinh học, cùng châm ngòi cho cuộc cách mạng sinh học và y khoa từ giữa thế kỷ 19 cho tới nay… Kỳ diệu hơn nữa, Định luật Tạo Sinh do Pasteur khám phá và Định luật Mendel về Di truyền, mặc dù hoàn toàn độc lập, nhưng cùng gợi ý cho thấy sự sống chứa đựng một bí mật vượt quá phạm vi của các khoa học động lực học như vật lý và hóa học. Ngày nay chúng ta biết bí mật đó là thông tin của sự sống: mã DNA!

Rất khó để có thể tóm tắt công lao vĩ đại của hai nhà sinh học khổng lồ này trong một đánh giá ngắn gọn nhưng hy vọng với cuốn sách, độc giả sẽ tìm thấy đầy đủ những giá trị đó.

Năm 2022 là kỷ niệm tròn 200 năm ngày sinh của hai trong số những nhà khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại: Louis Pasteur và Gregor Mendel!

 

Louis Pasteur (27/12/1822 – 28/09/1895) 

Louis Pasteur chào đời ngày 27/12/1822 tại Dole, thuộc Jura, một tỉnh của Pháp giáp Thụy Sĩ, là con thứ ba trong một gia đình Công giáo. Cha của  Pasteur là Jean-joseph Pasteur, một người làm nghề thuộc da, từng là trung sĩ trong quân đội của Napoléon, từng được thưởng Huân chương Bắc đẩu bội tinh. Mẹ là bà Jeanne-Estiennette Roqui, một người đàn bà nền nếp chu đáo trong công việc gia đình. Mặc dù học vấn không cao nhưng cha mẹ  Pasteur luôn hết lòng chăm lo con cái, đặc biệt chú trọng giáo dục đạo đức, nhân cách, và cố gắng cho con cái được hưởng một nền giáo dục đầy đủ hơn mình. Dẫu vậy, ông Jean-joseph chỉ dám mơ ước con trai sẽ trở thành một giáo viên trường trung học địa phương. Nhưng cậu bé Louis đã trở thành một người con ưu tú bậc nhất của nước Pháp và thế giới…

Đại dịch Covid-19 toàn cầu từ cuối năm 2019 đã làm rất nhiều người lo lắng, sợ hãi, mong từng ngày từng giờ có vaccine, nhưng khi có vaccine họ chỉ biết cảm ơn những công ty chế tạo ra vaccine mà không cần biết khoa học vaccine từ đâu mà ra. Tình trạng “quên lịch sử” như thế là phổ biến, đến nỗi Viện Pasteur ở Paris đã phải lên tiếng nhắc nhở trong một bài báo nhân dịp kỉ niệm 200 năm ngày sinh của Louis Pasteur tại Pháp, để lưu ý công chúng về vai trò của những công trình nghiên cứu của Pasteur trong thời đại ngày nay:

“Dù nổi tiếng với vaccine phòng bệnh dại – thứ đã mang lại cho ông danh hiệu “ân nhân của nhân loại” – nhưng bề dày thành tựu khoa học của Pasteur lại ít được biết đến, trong khi trên thực tế, những thành tựu ấy vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến cuộc sống hằng ngày, đến việc nghiên cứu và đến y khoa”.

Quả thật hầu như ai cũng nghe danh Pasteur, nhưng số người biết rõ ý nghĩa của những thành tựu khoa học của ông lại không nhiều, nếu không muốn nói là rất ít. Cuốn sách này hy vọng sẽ góp phần bù lấp thiếu sót đó.

Gregor Mendel (20/07/1822 – 06/01/1884)

Gregor Johann Mendel sinh ngày 20/07/1822 tại Brno, một thành phố thuộc Áo, nay thuộc Cộng hòa Czech. Khác với Pasteur (người có quá nhiều khám phá phát minh), Mendel, một linh mục Công giáo thuộc Dòng Augustine, chỉ có một khám phá duy nhất mà ngày nay được gọi là các Định luật Mendel về Di truyền. Công trình này được ông trình bày lần đầu tiên vào năm 1865 trước Hội Nghiên cứu Khoa học Tự nhiên ở Brno (Brno Society of Natural Science Study), và năm sau, 1866, được công bố chính thức trên tạp chí của hội này dưới một tên gọi rất giản dị là “Thí nghiệm lai tạo cây trồng” (Versuche über Pflanzenhybriden). Nhưng công trình duy nhất và khiêm tốn ấy, chỉ gói gọn trong 44 trang giấy, sau 34 năm chìm trong bóng tối, đã được tái khám phá vào đầu thế kỷ 20, lập tức đưa tên tuổi Mendel lên hàng những danh nhân khoa học bậc nhất mọi thời đại. Tại sao vậy?

Vì nó đặt nền móng cho Di truyền học hiện đại, mở đường cho những nghiên cứu về những bí mật vi diệu nằm sâu bên trong sự sống – những nghiên cứu mũi nhọn của sinh học hiện đại kéo dài suốt hơn 150 năm qua. Tác giả của cuốn sách này, với niềm say mê khoa học về sự sống, đã bị cuốn theo dòng chảy nghiên cứu đó. Càng nghiên cứu càng nhận ra rằng không dễ dàng để có một hiểu biết sâu sắc về di truyền học. Nó đòi hỏi phải tiếp thu một dây chuyền tri thức về cấu trúc và hoạt động của tế bào, về sinh học phân tử, thậm chí cả một số tri thức về các quá trình vật lý lượng tử… Chính dây chuyền đó cho thấy thiên tài của Gregor Mendel, bởi không có định luật di truyền do ông khám phá sẽ không có tất cả những tri thức đáng kinh ngạc về sự sống như ta biết hiện nay. Chính điều đó khuyến khích tác giả cuốn sách này nỗ lực trình bày về Mendel và công trình của ông sao cho độc giả có một cái nhìn tổng quan về sự sống nhưng không hời hợt. Nhiều kiến thức trong cuốn sách này đòi hỏi một sự trầm tư để nhìn sâu vào bản chất bên trong sự sống, từ đó người đọc có thể tự khám phá ra những điều bất ngờ, liên quan đến câu hỏi khó nhất nhưng cũng lý thú nhất: “Bản chất sự sống là gì?”.

Nhận xét về “Louis Pasteur – Gregor Mendel Và Cuộc Cách Mạng Sinh Học, Y Khoa”

“Ai đóng góp vào việc cứu sống con người hơn bất kỳ một nhà khoa học nào khác? Ai được gọi là nhà sinh học vĩ đại nhất mọi thời đại? Ai, bằng những khám phá của mình, đã tạo nên cuộc cách mạng trong y khoa và sức khỏe cộng đồng? Đó là Louis Pasteur…” – David Coppedge, nhà khoa học của NASA

“Mendel – người nói cùng một thứ ngôn ngữ với Luther, Leibnitz, Kant và Goethe – ngày nay không chỉ thuộc về giới khoa học quốc tế, mà thuộc về tất cả chúng ta” – National Library of Medicine, Thư Viện Y học Quốc gia, Mỹ

Thông tin tác giả Phạm Việt Hưng

Phạm Việt Hưng

Là nhà nghiên cứu, giảng dạy Toán cao cấp, Cơ học lý thuyết, Toán kinh tế, ký giả khoa học từng cộng tác với các tạp chí Signs of the Times (Úc), Vietsciences (Pháp), Tia Sáng, Khoa học & Đời Sống, Khoa học & Tổ quốc, đồng thời là dịch giả và tác giả của nhiều cuốn sách.

Tác giả cuốn Những câu chuyện khoa học hiện đại (NXB Trẻ, 2004); Tác giả bài viết “Câu chuyện ‘Hạt của Chúa’ đã kết thúc?” trong kỷ yếu Hạt Higgs và Mô hình Chuẩn (NXB Tri thức, 2014).

Dịch giả cuốn Câu chuyện về phương trình thâu tóm cả Vũ trụ, Amir Aczel (NXB Trẻ, 2004); Từ Xác định đến Bất định, David Peat (NXB Tri thức, 2011); đồng dịch giả cuốn Định lý cuối cùng của Fermat (NXB Trẻ, 2005).

. Louis Pasteur – Gregor Mendel Và Cuộc Cách Mạng Sinh Học, Y Khoa . . – . | .

Câu Chuyện Triết Học – The Story Of Philosophy (Bìa Cứng)

Giới thiệu sách Câu Chuyện Triết Học – The Story Of Philosophy (Bìa Cứng)

Khi viết cuốn sách này, Will Durant không tham vọng viết một lịch sử triết học hoàn chỉnh, ông chỉ nỗ lực nhân văn hóa tri thức triết học qua cuộc đời và tư tưởng của các triết gia phương Tây mà theo ông có vị trí quan trọng hơn cả. Từ đó, ông làm sáng tỏ quan điểm rằng triết học nên được hiểu là sự diễn giải mang tính tổng hợp về tất cả mọi kinh nghiệm, thay vì là sự mô tả mang tính phân tích về phương thức và quá trình của chính kinh nghiệm. Bởi việc phân tích thuộc về khoa học còn sự tổng hợp thuộc về triết học, và bởi “khoa học cho ta tri thức, nhưng chỉ triết học mới có thể cho ta trí tuệ”.

Câu chuyện triết học thành công vang dội không chỉ trong vai trò một dẫn luận về tinh thần triết học mà còn ở lời mời gọi đến với bộ môn này. Sau khi cuốn sách được xuất bản, doanh số của các tác phẩm triết học kinh điển đã tăng khoảng 200%. Nhiều nhà xuất bản đã phát hành những phiên bản mới, đặc biệt là những tác phẩm của Plato, Spinoza, Voltaire, Schopenhauer và Nietzsche. Và kể từ thời điểm ra đời đến nay, Câu chuyện triết học đã được tái bản hàng chục lần, chứng minh cho sức sống, tầm ảnh hưởng vượt thời gian của nó.

Ở Việt Nam, Câu chuyện triết học từng được xuất bản nhiều lần với bản dịch không đầy đủ. Do vậy, đây chính là bản dịch tiếng Việt mới hoàn chỉnh và lần đầu tiên có bản quyền chính thức của tác phẩm nổi tiếng này.

Thông tin tác giả Will Durant

Will Durant

William James Durant (5 tháng 11 năm 1885 – 7 tháng 11 năm 1981) là một nhà sử học, triết gia và tác giả người Hoa Kỳ. Ông đấu tranh cho việc trả lương công bằng, quyền bầu cử của phụ nữ và các điều kiện làm việc tốt hơn cho người lao động Mỹ. Durant không chỉ sáng tác về nhiều chủ đề mà còn tiến hành thực hiện các ý tưởng của mình. Nhiều người cho rằng Durant đã cố gắng đưa triết học đến gần hơn với công chúng.

Ông đã cho ra đời nhiều tác phẩm, tiêu biểu là The Story of Philosophy (Câu chuyện của triết học), The Mansions of Philosophy (Những điền trang của triết học), và cùng với sự trợ giúp của vợ ông Ariel Durant, bộ The Story of Civilization (Câu chuyện của nền văn minh). Tập 10 trong bộ “The Story of Civilization” mang tên Rousseau an Revolution đã đoạt giải Pulitzer cho tác phẩm phi hư cấu nói chung năm 1968. Ông cũng tham gia viết nhiều bài báo nhiều thể loại.

. Câu Chuyện Triết Học – The Story Of Philosophy (Bìa Cứng) . . – . | .

Tri Thức Của Chúng Ta Về Ngoại Giới – Our Knowledge Of The External World

Giới thiệu sách Tri Thức Của Chúng Ta Về Ngoại Giới – Our Knowledge Of The External World

Bertrand Russell (1872-1970) là một trong những nhà tư tưởng quan trọng nhất của thời hiện đại. Là một nhà triết học, toán học, nhà cải cách giáo dục, nhà trí thức cổ vũ tự do tình dục và tự do xã hội, một nhà vận động cho nhân quyền và hòa bình, ông đồng thời là tác giả của nhiều quyển sách, tiểu luận, và bài giảng mang tính đại chúng và có ảnh hưởng về nhiều chủ đề khác nhau.

Được xem là một trong những gương mặt gây tranh cãi nhất của thế kỉ XX, Russell cực kì nổi tiếng vì những tác phẩm khiêu khích của ông. Các tác phẩm này mang lại những cái nhìn sâu sắc và quan điểm tư tưởng tiến bộ về một xã hội phương Tây đang biến chuyển và tiến bộ, nhất là giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến, sự suy tàn của chủ nghĩa đế quốc Anh và bối cảnh đạo đức đầy biến động.

Tri thức của chúng ta về ngoại giới là tập bài giảng Bertrand Russell giảng ở Mỹ, trong đó ông đặt những câu hỏi về tính quan yếu và tính chính đáng của triết học. Ông khảo sát mối quan hệ giữa tri thức ‘khoa học’ và tri thức ‘cá nhân’ và đặt câu hỏi về cách thức chúng ta có thể hiểu về thế giới vật lý của chúng ta. Đây là tác phẩm bùng nổ và gây tranh cãi, nó đưa ra những ví dụ cho thấy các tuyên bố của các triết gia là quá mức như thế nào, và khảo sát tại sao thành tựu của họ không thể đạt được tầm vóc lớn hơn.

Huỳnh Duy Thanh giới thiệu

Thông tin tác giả Bertrand Russell

Bertrand Russell

Sinh (1872-1970), rất đa năng. Ông là triết gia, nhà Logic học, toán học, sử gia và nhà phê phán xã hội. Russell khởi xướng phong trào “phản-lý tưởng” đầu thế kỷ XX. Ông được coi như một trong những người đặt nền tảng cho học thuyết Triết lý Phân tích, cùng với triết gia tiên phong Gottlob Frege, và Ludwig Wittgenstein, bạn ông. Ông cũng được vinh danh như nhà Lôgic hàng đầu ở thế kỷ XX. Đồng tác giả với A. N. Whitehead, trước tác Principia Mathematica của ông là một công trình đặt toán học trên cơ sở Logic. Và trong luận đề “On denoting” (Về vấn đề biểu thị), ông đã sáng tạo một hệ hình cho triết học. Công trình khoa học của B. Russell ảnh hưởng đến sự triển khai của nhiều ngành như Logic, Toán, Lý thuyết Tập hợp, Vi tính, Triết học, và đặc biệt nhất là Ngôn ngữ học dưới góc độ Triết giải, Nhận thức luận và Siêu hình học.

. Tri Thức Của Chúng Ta Về Ngoại Giới – Our Knowledge Of The External World . . – . | .

Lão Tử Đạo Đức Kinh

Giới thiệu sách Lão Tử Đạo Đức Kinh

Lão Tử là người huyện Khổ, nước Sở, sống trong thời Xuân Thu Chiến Quốc. Tương truyền ông là người viết bộ sách Đạo Đức Kinh, chủ yếu bàn về Đạo học và cách sống để hòa hợp với Đạo.

Ở Việt Nam, có rất nhiều nhà nghiên cứu đã dịch và bình chú về cuốn Đạo Đức Kinh của Lão Tử. Nhờ những cách hiểu và khám phá mới mẻ của mỗi nhà nghiên cứu mà nội dung quyển Đạo Đức Kinh ngày càng trở nên phong phú và nhiều màu sắc. Nhà xuất bản Trẻ xin giới thiệu đến quý độc giả hai cuốn sách Lão Tử Đạo Đức Kinh và Lão Tử tinh hoa. Lão Tử Đạo Đức Kinh được học giả Nguyễn Duy Cần dịch trực tiếp từ bản gốc tiếng Trung Quốc, có kèm theo phần chú giải để độc giả tiện theo dõi. Lão Tử tinh hoa là cuốn sách bàn rộng ra về những nội dung cốt lõi của Đạo Đức Kinh. Trân trọng giới thiệu đến quý độc giả cả nước.

 

Thông tin tác giả Thu Giang Nguyễn Duy Cần

Thu Giang Nguyễn Duy Cần

Thu Giang Nguyễn Duy Cần tên thật là Nguyễn Duy Cần (1907 – 1998), nguyên quán: làng Điều Hòa, tổng Thuận Trị, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (nay là thành phố Mỹ Tho, thuộc tỉnh Tiền Giang). Ông làm nghề viết sách, dạy học, lương y, nghiên cứu Đạo học, Kinh Dịch, với các biệt hiệu: Thu Giang, Hoàng Hạc, Bảo Quang Tử… Ông còn là một học giả, nhà biên khảo và trước tác kỳ cựu vào bậc nhất Việt Nam giữa thế kỷ 20. Sự nghiệp nghiên cứu và trước tác của ông bắt đầu từ năm 1931 với việc xuất bản quyển Triết học đầu tiên “Toàn chân”, gây nên một cuộc bút chiến sôi nổi trên báo Mai. Trong những năm sau đó, ông tiếp tục cho xuất bản các tác phẩm khá đều đặn. Ông nổi bật không chỉ về số lượng tác phẩm đồ sộ mà còn ở độ sâu học thuật và sức ảnh hưởng về mặt tư tưởng đến các tầng lớp thanh niên trí thức việt nam.

. Lão Tử Đạo Đức Kinh . . – . | .

Ý Chí Quyền Lực – Một Nỗ Lực Đảo Hoán Mọi Giá Trị (Bìa Cứng)

Giới thiệu sách Ý Chí Quyền Lực – Một Nỗ Lực Đảo Hoán Mọi Giá Trị (Bìa Cứng)

Lời tựa cho bản dịch tiếng anh “Ý Chí Quyền Lực”

Tập sách bạn đang cầm là hai quyển đầu tiên của những ghi chép được xem là công trình triết học và lý thuyết quan trọng của Nietzsche. Sự tiếp nhận của người đọc dành cho Zarathustra đã nói như thế là hời hợt và những ngộ nhận về lời dạy của nó đã trở nên phổ biến đến mức suốt một năm công bố phần thứ nhất của thi phẩm triết học danh tiếng này Nietzsche đã bắt đầu nhận ra sự tất yếu phải trình bày các học thuyết của mình trước công chúng trong hình thức rõ ràng hơn và không gây ngộ nhận. Suốt những năm sau đó, tức là giữa 1883 và 1886, dự định này đã trở nên chín muồi, và dù không có bằng chứng chắc chắn, ngoại trừ lời tường thuật của chính cô em gái của ông và những bằng chứng chủ quan của ta, để xếp loại Bên kia thiện ác (công bố năm 1886) giữa những đóng góp cho đề án triết học vĩ đại và sau cùng của Nietzsche, “Ý chí quyền lực”, ngày nay ta hoàn toàn không thể tách biệt nó ra khỏi những công trình chính của ông như Khởi sinh của bi kịch, Những suy tưởng không hợp thời, các tập sách nhan đề Con người – quá đỗi con người, Buổi bình minh, và Tri thức hân hoan.

Bấy giờ, Bên kia thiện ác cùng với tác phẩm tiếp sau nó là Phả hệ luân lý và hai tập sách nhỏ, Buổi hoàng hôn của những thần tượng và Kẻ phản-Kitô (lần lượt được công bố năm 1889 và 1894), phải được xem là yếu tố hợp thành của dự định tổng quát mà Ý chí quyền lực là opus magnum [công trình chính] của nó.

Không may là, Ý chí quyền lực chưa bao giờ được Nietzsche hoàn tất. Bản dịch này căn cứ trên một bản văn trong di văn của ông, và nó thiếu những thuận lợi mà một cuốn sách có thể có được đến nỗi phải cần đến nhiều nỗ lực trong việc sắp xếp và hiệu đính. Người chịu trách nhiệm xuất bản một tác phẩm là người đảm nhận công việc chuẩn bị kĩ lưỡng, với tác phẩm này của Nietzsche nhiệm vụ không gì khác hơn là dày công tập hợp các chú thích và các bản thảo mà ông đã ghi chép lúc sinh thời, như là chất liệu cho công trình chính của ông; sự tự do trong việc xử lý bản thảo – ngoại trừ việc sắp xếp nó – có thể cho phép chúng tôi bổ sung hoặc lược bỏ những điều tác giả đã tự bổ sung hoặc lược bỏ mà không đưa ra lý do rõ ràng, và ta cũng thấy trong vài trường hợp có những đoạn văn chỉ như những ghi chép vội vã về những ý nghĩ thoáng qua mà Nietzsche có ý định triển khai chi tiết về sau. Trong những trường hợp như vậy, bản dịch sẽ theo nguyên bản tiếng Đức một cách sát cận nhất có thể, và tránh tùy tiện sử dụng các liên từ, vì sợ rằng nghĩa của câu có thể bị thay đổi, dù là sự thay đổi nhỏ nhất. Do đó, chúng tôi mong bạn đọc sẽ lưu ý những điều này bất cứ khi nào gặp phải sự vụng về nào đó trong cách diễn đạt hoặc trong lối hành văn khi đọc bản dịch này.

Có thể nói rằng kể từ khi Nietzsche nhận ra việc tất yếu phải có một sự trình bày rõ ràng hơn trước công chúng sau cuốn Zarathustra, tức là từ mùa Xuân 1883, không có bất kỳ sự gián đoạn nào đối với công việc triển khai Ý chí quyền lực của ông, và nó cũng là mối quan tâm hàng đầu của ông trong suốt thời gian này cho đến khi trí lực ông suy kiệt vào năm 1889.

Sáu năm không phải là quá dài để thực hiện nhiệm vụ ấy, nhưng trong dự án vĩ đại mà ông đề ra, Nietzsche đã thật sự bắt đầu cho thấy rằng “Ý chí quyền lực” – nguyên tắc-của-sự sống – chính là động cơ chủ yếu của mọi sinh thể.

Khi quan niệm như vậy, ông muốn nói đến cả thế giới động vật và xã hội loài người, với những khu vực phân chia của nó, tôn giáo, nghệ thuật, luân lý, chính trị, v.v… và trong từng lĩnh vực ông đều ra sức chứng minh cách thức hoạt động của nguyên tắc mà ông xem là yếu tố bản chất của mọi sự hiện hữu.

Em gái Nietzsche, Elisabeth Förster, cho ta biết rằng khái niệm “Ý chí quyền lực” – nguyên tắc nền tảng của mọi sự sống – lần đầu tiên nảy sinh trong tâm trí Nietzsche vào năm 1870, khi ông đang phục vụ trong bộ phận hậu cần của quân đội Đức với tư cách một tình nguyện viên. Một dịp nọ, khi kết thúc một ngày mệt nhoài với những thương binh, ông lặng lẽ vào một thị trấn nhỏ nằm trên một tuyến đường chính của quân đội. Ở đó, ông thung dung dạo bước, đột nhiên ngoảnh đầu sang một góc đường nơi có những bức tường đá rất cao, một tiếng gầm thét vọng ra, nghe như tiếng sấm. Ông vội vàng tiến lên vài bước, và những gì ông chứng kiến là một đội kỵ mã hùng tráng – biểu hiện cho lòng dũng cảm vinh quang và sức mạnh phi thường của một dân tộc – đang lướt qua như một đám mây rực rỡ. Tiếng sấm rền vang ngày càng lớn và khiến ông đôi chút bồn chồn. Trung đoàn pháo binh dã chiến yêu quý của ông đang lao về phía trước với tốc lực tối đa, ra khỏi màn sương mù mịt, và tăng tốc về hướng Tây giữa tiếng xích lạch cạch và những con chiến mã đang phi nước đại. Một hoặc hai phút trôi qua, rồi sau đó một đội bộ binh xuất hiện, tiến lên theo hai hướng – đôi mắt của các chiến binh rực lửa, đôi chân họ chạm vào nền đất hùng dũng như những nhát búa dữ dội, và quân trang họ lấp lánh qua làn sương mù. Trong khi đội quân ấy đi qua trước mặt ông, trên đường ra chiến trận và có lẽ đến với tử thần, – tuyệt vời biết bao khi chứng kiến sức mạnh khôn cùng và lòng dũng cảm đáng phục, hoàn hảo biết bao khi nhận thấy biểu tượng của một chủng tộc sẽ chinh phục và giành chiến thắng, hoặc sẽ diệt vong trong máu và đất bùn Nietzsche bất chợt lóe lên ý nghĩ rằng ý chí sống cao nhất không thể biểu hiện trong một “cuộc đấu tranh sinh tồn” khốn khổ, mà là trong ý chí chiến đấu, một ý chí quyền lực, một ý chí chế ngự! Đây được xem là câu chuyện hình thành quan niệm đầu tiên của Nietzsche về nguyên lý căn nguyên của toàn bộ triết học ông, và mười hai năm sau, trong cuốn Zarathustra đã nói như thế, ta thấy ông giải thích rằng:

“Nơi nào có sinh thể, nơi đó có Ý chí quyền lực; thậm chí trong ý chí của người làm nô ta cũng tìm thấy ý chí muốn làm chủ”“Chỉ nơi nào có sự sống, nơi ấy cũng có ý chí: không phải là Ý chí Sự sống, mà ta sẽ nói với ngươi, đó là Ý chí quyền lực!”“Có nhiều thứ một sinh thể cho là cao hơn cả bản thân sự sống; nhưng từ nhận định ấy vẫn vang lên tiếng vọng – Ý chí quyền lực!” [1] .

Ba năm sau, trong Bên kia thiện ác, ta thấy những dòng sau đây:

“Các nhà tâm lý học nên suy xét thận trọng trước khi cho rằng bản năng tự bảo tồn là xung lực trọng yếu của sinh thể. Trước hết, sinh thể có xu hướng phóng xuất sinh lực nội tại – đời sống chỉ là ý chí khát vọng quyền lực -: bản năng tự bảo tồn chỉ là hệ quả gián tiếp và thường xuyên xuất hiện nhất mà thôi” [2].

Tuy nhiên, trong tập sách này, và cả tập sau của nó, ta sẽ thấy một Nietzsche chín muồi hơn, tỉnh táo hơn, và có lẽ sâu sắc hơn so với những tác phẩm kể trên. Mọi thái độ yêu mến cũng như căm ghét dành cho ông mà ta biết được sẽ xuất hiện trở lại trong tác phẩm này; nhưng ở đây dường như ông vượt lên trên tất cả những điều đó; dù từng phát biểu những lý tưởng của mình một cách quyết liệt và dứt khoát, nhưng bây giờ ông bàn luận với một tâm thái hài hước, tỉ mỉ và chi tiết, và sẵn sàng dành cho các đối thủ của một sự lắng nghe điềm tĩnh và tôn trọng. Chẳng hạn, thái độ khoan dung của ông dành cho Kitô giáo ở các trang 8. 9, 107, 323 [3] , là một điển hình, và sự mô tả rõ ràng của ông về những gì ta phải hiểu qua khái niệm “lòng trắc ẩn” ở trang 293 chắc chắn sẽ mang lại một sự cương quyết và kiên nhẫn để dõi theo từng bước lập luận của ông trong tác phẩm này. Quyển Một dường như không được sắp xếp hay được xử lý gọn gàng như Quyển Hai; nó mang tính phác thảo và nhiều tính tư biện hơn cuốn hai. Dù vậy, nó bao gồm nhiều vấn đề cực kỳ thú vị, khi nó nỗ lực truy nguyên những yếu tố của Chủ nghĩa hư vô – như là hệ quả của những giá trị Kitô giáo – trong mọi định chế ngày nay của chúng ta.

Trong Quyển Hai, Herbert Spencer đôi lần bị phê phán, nhất là ở trang 237, dù Nietzsche không nêu đích danh, nhưng ta thấy rõ hàm ý của ông. Ở đây, Nietzsche hoàn toàn khước từ mọi ý tưởng về một nền luân lý cá nhân luận, và phát biểu một cách thận trọng rằng triết học của ông hướng tới một trật tự thứ bậc mới.

Dường như đối với một vài người, luân lý được nghiên cứu một cách thiếu cẩn trọng trong cả hai quyển sách; nhưng, ở phương diện này, hẳn họ đã quên rằng Nietzsche không chỉ đưa ra một lập trường nhất quyết nghiêng về con người kiệt xuất, mà ông còn tin rằng mọi nền luân lý chính là một hệ thống bao gồm những đánh giá do những hoàn cảnh sống của một loài quy định. Do đó, ở trang 107 ông bảo: “Vượt qua thiện và ác – chắc chắn như vậy; nhưng, chúng tôi nhấn mạnh vào sự bảo tồn vô điều kiện và chặt chẽ của luân lý-bầy đàn”; và trang 323: “Giả sử người mạnh mẽ là ông chủ xét về mọi phương diện, thậm chí trong việc phán định: ta thử nỗ lực và suy tư xem thái độ của họ về bệnh tật, khổ đau và sự hy sinh sẽ như thế nào! Sự tự-rẻ mạt bản thân mình của kẻ yếu nhược sẽ là kết quả: họ sẽ khiến năng lực tột cùng của mình tiêu tan và trừ tiệt bản tính của mình. Điều đó có đáng mong muốn không? Phải chăng ta mong muốn một thế giới hoàn toàn thiếu vắng sự tinh tế, sự chu toàn, sự minh triết và sự linh hoạt – thật ra là toàn bộ những gì ảnh hưởng lên kẻ yếu nhược?”

Từ đoạn văn trên, ta thấy rõ Nietzsche chỉ phản đối sự ảnh hưởng của kiểu luân lý – bầy đàn ở bên ngoài bầy đàn – tức là, đám người thóa mạ những người kiệt xuất và cao quý. Trong khi phần lớn các nhà triết học trước ông đều là những “nhà vị tha” của tầng lớp thấp, Nietzsche có lẽ phải được gọi là nhà vị tha của những người kiệt xuất, của những trường hợp duyên may trong quần thể người. Với “những sự đa dạng” như vậy, ông cho rằng nền luân lý của Kitô giáo đã làm tất cả những gì nó có thể, và dù không hề muốn xem nhẹ giá trị của nó trong quá khứ, nhưng ông nhận ra rằng ngày nay, trong mọi trường hợp, nó chứng tỏ một hiểm họa không hề nhỏ. Do đó, với Goethe, “Giả thuyết chỉ là các bộ phận của một giàn giáo được dựng lên xung quanh một tòa nhà trong quá trình thi công, và sẽ được dỡ bỏ ngay khi tòa nhà hoàn tất. Đối với người thợ nề, chúng là những vật dụng tất yếu phải có; nhưng ông ta phải cẩn trọng để không nhầm lẫn cái giàn giáo là tòa nhà” [4] .

Điều đáng tiếc là Nietzsche chưa bao giờ có thể hoàn tất công trình cả đời của mình. [Nhưng] những tản văn được tập hợp trong tập I và II của Ý chí quyền lực có thể được xem là đầy đủ để chuyển tải ý tưởng chính của toàn bộ triết học ông, chỉ có điều giá như tác giả của nó còn đủ sự minh mẫn để xếp đặt và hoàn tất nó theo dự định ban đầu của mình.

Hi vọng rằng ngày nay ta đủ tỉnh táo để bình tâm đón nhận sự phê phán nghiêm túc và thấu đáo, ngay cả từ người được yêu quý nhất trong các định chế của ta, và một người cải cách trung thực và chân thành hẳn không còn nhận thức nơi chúng ta có một thành kiến nào chống lại ông nữa, nhất là khi ông mang đến một Tin mừng – “Ý chí quyền lực” – tức là một sự kiểm chứng về sức mạnh của ta hướng tới ý chí.

ANTHONY M.LUDOVICI

1. Bản dịch của Trần Xuân Kiêm: “Bởi vì cái gì không hiện hữu thì không thể ước ao hiện hữu; và cái gì đang hiện hữu thì làm thế nào nó lại ước ao hiện hữu nữa? Chỉ nơi nào có đời sống, nơi đó mới có ý chí: không phải ý chí khao khát sự sống, nhưng là ý chí cường lực, như ta đã giảng dạy cho mi. Có nhiều sự việc mà sinh thể cho là cao hơn cả đời sống, nhưng trong chính sự phán định giá trị ấy, vẫn ngân vang lên giọng nói sang sảng của ý chí quyền lực!” (đoạn 35: về sự chiến thắng tự thân).

2. Theo bản dịch của Nguyễn Tường Văn, Nxb. Văn hóa-Thông tin, tr.28.

3. The Will to Power (1910), An Attempted Transvaluation of All Values, by Anthony M. Ludovici, Vol 1 (Books I and II), In Volume 14 of the Complete Works of Nietzsche. Edited by Dr. Oscar Levy. Publisher: T.N.Foulis, Edinburgh/London.

1. Naturwissenschaft im Allgemeinen (Weimar Edition, i. II, p.132) – Anthony M.Ludovici (A.M.L).

Trích đoạn hay trong Ý Chí Quyền Lực

“Các triết gia và các đạo đức gia tưởng rằng họ thoát khỏi sự suy đồi bằng cách chống lại nó, đó là một sự tự lừa phỉnh mình. Điều ấy vượt quá ý chí của họ; tuy nhiên ít khi họ thừa nhận nó, người ta sau đó phát hiện ra rằng họ là một trong những kẻ thúc đẩy sự suy đồi mạnh mẽ nhất”.

(Trích: Phê phán nhà triết học)

“Tôi không muốn cải đối bất kỳ ai đến với triết học: điều cần thiết và có lẽ đáng khao khát chính là việc triết gia nên là một loài cây hiếm. Chẳng có gì đáng tởm với tôi hơn lời tán dương thể lối học giả dành cho triết học như ta thấy nơi Seneca và Cicero. Triết học không có nhiều điểm chung với đức hạnh. Tôi tin mình được quyền phát biểu rằng thậm chí nhà khoa học cũng là một người khác biệt tận căn so với nhà triết học. Điều tôi hằng mong mỏi là khái niệm đích thực về “triết gia” không tiêu vong hoàn toàn tại nước Đức. Có rất nhiều kẻ nửa vời tại Đức sẽ hớn hở tiết lộ vẻ ngớ ngẩn của mình bên dưới những danh xưng cao quý như vậy.”

[…]

“Tôi phải đặt ra lý tưởng cao nhất về một triết gia. Học vấn không phải là tất cả! Học giả là con cừu trong vương quốc của học vấn; ông ta mày mò nghiên cứu vì ông ta được dạy phải làm như vậy, và vì những người khác trước ông cũng làm vậy.”

[…]

“Sự quy ước sai lầm về các triết gia: người ta đánh đồng họ với các nhà khoa học. Như thể giá trị của sự vật đã có sẵn nơi chúng và họ phải nắm chặt trong tay! Trong chừng mực nào những nghiên cứu của họ phải được tiến hành dưới ảnh hưởng của những giá trị đã thịnh hành (họ căm ghét thân xác, v.v…)? Schopenhauer bàn về luân lý (miệt thị thuyết công lợi). Cuối cùng, sự nhầm lẫn ấy đi xa đến mức Thuyết Darwin cũng được xem là triết học, và như thế ngày nay quyền lực đã chuyển sang nhà khoa học”.

(Trích: Phê phán triết học)

Mục lục sách Ý Chí Quyền Lực – Một Nỗ Lực Đảo Hoán Mọi Giá Trị

  • NỘI DUNG TẬP 1
  • Lời tựa cho bản dịch tiếng Anh.
  • Lời tựa của Nietzsche
  • Quyển Một: CHỦ NGHĨA HƯ VÔ CHÂU ÂU MỘT KHÁI LƯỢC
  • I. CHỦ NGHĨA HƯ VÔ
    • 1. Chủ nghĩa hư vô như là hệ quả của những phán định và diễn giải về cuộc đời đã thịnh hành từ trước đến nay
    • 2. Những nguyên nhân khác của chủ nghĩa hư vô
    • 3. Sự vận động của chủ nghĩa hư vô chính là biểu hiện của sự suy đồi
    • 4. Cuộc khủng hoảng: Chủ nghĩa hư vô và ý niệm về sự quy hồi
  • II. VỀ LỊCH SỬ CỦA CHỦ NGHĨA HƯ VÔ CHÂU ÂU
    • (A) Quang cảnh u ám của thời hiện đại
    • (B) Những thế kỷ đã qua
    • (C) Những dấu hiệu của sức mạnh tăng tiến
  • Quyển Hai: PHÊ PHÁN NHỮNG GIÁ TRỊ CAO TỘT THỊNH HÀNH ĐẾN NGÀY NAY
  • I. PHÊ PHÁN TÔN GIÁO
    • 1. Về nguồn gốc của các tôn giáo
    • 2. Về lịch sử của Kitô giáo
    • 3. Những lý tưởng của Kitô giáo
  • II. PHÊ PHÁN LUÂN LÝ
    • 1. Nguồn gốc của những phán định luân lý 2. Bầy đàn
    • 3. Những nhận định tổng quát về luân lý
    • 4. Đức hạnh được tạo ra như thế nào để thống trị?
    • 5. Lý tưởng luân lý
      (A) Phê phán những lý tưởng
      (B) Phê phán “Con người lương thiện”, thánh nhân (C) Về lời phỉ báng đối với cái gọi là những Phẩm chất Xấu xa……..
      (D). Phê phán những khẩu ngữ: Cải thiện, Hoàn hảo, Nâng cao ….
    • 6. Những đánh giá tổng kết về phê phán luân lý.
  • III. PHÊ PHÁN TRIẾT HỌC..
    • 1. Những nhận định tổng quát.
    • 2. Phê phán triết học Hy Lạp.
    • 3. Chân lý và sai lầm của các triết gia.
    • 4. Những đánh giá tổng kết về phê phán triết học..
  • BẢNG TRỎ THUẬT NGỮ VÀ TÊN NGƯỜI

Thông tin tác giả Friedrich Nietzsche

Friedrich Nietzsche

Sinh (1844 – 1900) là một triết gia thiên tài, những ý tưởng mang tính cách mạng của ông đã thay đổi cách chúng ta nghĩ về triết học, tôn giáo, đạo đức và đời sống. Bất kỳ ai khi nghe đến Nietzsche đều biết rằng vị triết gia này đã từng tuyên bỏ một cách sắc lẹm “Chúa đã chết” [God is dead]. Điều đó có nghĩa chúng ta-con người cần phải tự mình tạo ra giá trị, ý nghĩa sống và tự chịu trách nhiệm cho đời mình.

Một số tác phẩm quan trọng:

  • The Birth of Tragedy (1872)
  • Human, All Too Human (1878)
  • The Gay Science (1882)
  • Thus Spoke Zarathustra (1883)
  • Beyond Good and Evil (1886)
  • On the Genealogy of Morality (1887) Twilight of the Idols (1888)
  • The Anti-Christ (1888)
  • The Will to Power (various unpublished manuscripts edited by his sister Elisabeth; not recognized as a unified work after ca 1960).

. Ý Chí Quyền Lực – Một Nỗ Lực Đảo Hoán Mọi Giá Trị (Bìa Cứng) . . – . | .

Ý Chí Quyền Lực – Một Nỗ Lực Đảo Hoán Mọi Giá Trị

Giới thiệu sách Ý Chí Quyền Lực – Một Nỗ Lực Đảo Hoán Mọi Giá Trị

Lời tựa cho bản dịch tiếng anh “Ý Chí Quyền Lực”

Tập sách bạn đang cầm là hai quyển đầu tiên của những ghi chép được xem là công trình triết học và lý thuyết quan trọng của Nietzsche. Sự tiếp nhận của người đọc dành cho Zarathustra đã nói như thế là hời hợt và những ngộ nhận về lời dạy của nó đã trở nên phổ biến đến mức suốt một năm công bố phần thứ nhất của thi phẩm triết học danh tiếng này Nietzsche đã bắt đầu nhận ra sự tất yếu phải trình bày các học thuyết của mình trước công chúng trong hình thức rõ ràng hơn và không gây ngộ nhận. Suốt những năm sau đó, tức là giữa 1883 và 1886, dự định này đã trở nên chín muồi, và dù không có bằng chứng chắc chắn, ngoại trừ lời tường thuật của chính cô em gái của ông và những bằng chứng chủ quan của ta, để xếp loại Bên kia thiện ác (công bố năm 1886) giữa những đóng góp cho đề án triết học vĩ đại và sau cùng của Nietzsche, “Ý chí quyền lực”, ngày nay ta hoàn toàn không thể tách biệt nó ra khỏi những công trình chính của ông như Khởi sinh của bi kịch, Những suy tưởng không hợp thời, các tập sách nhan đề Con người – quá đỗi con người, Buổi bình minh, và Tri thức hân hoan.

Bấy giờ, Bên kia thiện ác cùng với tác phẩm tiếp sau nó là Phả hệ luân lý và hai tập sách nhỏ, Buổi hoàng hôn của những thần tượng và Kẻ phản-Kitô (lần lượt được công bố năm 1889 và 1894), phải được xem là yếu tố hợp thành của dự định tổng quát mà Ý chí quyền lực là opus magnum [công trình chính] của nó.

Không may là, Ý chí quyền lực chưa bao giờ được Nietzsche hoàn tất. Bản dịch này căn cứ trên một bản văn trong di văn của ông, và nó thiếu những thuận lợi mà một cuốn sách có thể có được đến nỗi phải cần đến nhiều nỗ lực trong việc sắp xếp và hiệu đính. Người chịu trách nhiệm xuất bản một tác phẩm là người đảm nhận công việc chuẩn bị kĩ lưỡng, với tác phẩm này của Nietzsche nhiệm vụ không gì khác hơn là dày công tập hợp các chú thích và các bản thảo mà ông đã ghi chép lúc sinh thời, như là chất liệu cho công trình chính của ông; sự tự do trong việc xử lý bản thảo – ngoại trừ việc sắp xếp nó – có thể cho phép chúng tôi bổ sung hoặc lược bỏ những điều tác giả đã tự bổ sung hoặc lược bỏ mà không đưa ra lý do rõ ràng, và ta cũng thấy trong vài trường hợp có những đoạn văn chỉ như những ghi chép vội vã về những ý nghĩ thoáng qua mà Nietzsche có ý định triển khai chi tiết về sau. Trong những trường hợp như vậy, bản dịch sẽ theo nguyên bản tiếng Đức một cách sát cận nhất có thể, và tránh tùy tiện sử dụng các liên từ, vì sợ rằng nghĩa của câu có thể bị thay đổi, dù là sự thay đổi nhỏ nhất. Do đó, chúng tôi mong bạn đọc sẽ lưu ý những điều này bất cứ khi nào gặp phải sự vụng về nào đó trong cách diễn đạt hoặc trong lối hành văn khi đọc bản dịch này.

Có thể nói rằng kể từ khi Nietzsche nhận ra việc tất yếu phải có một sự trình bày rõ ràng hơn trước công chúng sau cuốn Zarathustra, tức là từ mùa Xuân 1883, không có bất kỳ sự gián đoạn nào đối với công việc triển khai Ý chí quyền lực của ông, và nó cũng là mối quan tâm hàng đầu của ông trong suốt thời gian này cho đến khi trí lực ông suy kiệt vào năm 1889.

Sáu năm không phải là quá dài để thực hiện nhiệm vụ ấy, nhưng trong dự án vĩ đại mà ông đề ra, Nietzsche đã thật sự bắt đầu cho thấy rằng “Ý chí quyền lực” – nguyên tắc-của-sự sống – chính là động cơ chủ yếu của mọi sinh thể.

Khi quan niệm như vậy, ông muốn nói đến cả thế giới động vật và xã hội loài người, với những khu vực phân chia của nó, tôn giáo, nghệ thuật, luân lý, chính trị, v.v… và trong từng lĩnh vực ông đều ra sức chứng minh cách thức hoạt động của nguyên tắc mà ông xem là yếu tố bản chất của mọi sự hiện hữu.

Em gái Nietzsche, Elisabeth Förster, cho ta biết rằng khái niệm “Ý chí quyền lực” – nguyên tắc nền tảng của mọi sự sống – lần đầu tiên nảy sinh trong tâm trí Nietzsche vào năm 1870, khi ông đang phục vụ trong bộ phận hậu cần của quân đội Đức với tư cách một tình nguyện viên. Một dịp nọ, khi kết thúc một ngày mệt nhoài với những thương binh, ông lặng lẽ vào một thị trấn nhỏ nằm trên một tuyến đường chính của quân đội. Ở đó, ông thung dung dạo bước, đột nhiên ngoảnh đầu sang một góc đường nơi có những bức tường đá rất cao, một tiếng gầm thét vọng ra, nghe như tiếng sấm. Ông vội vàng tiến lên vài bước, và những gì ông chứng kiến là một đội kỵ mã hùng tráng – biểu hiện cho lòng dũng cảm vinh quang và sức mạnh phi thường của một dân tộc – đang lướt qua như một đám mây rực rỡ. Tiếng sấm rền vang ngày càng lớn và khiến ông đôi chút bồn chồn. Trung đoàn pháo binh dã chiến yêu quý của ông đang lao về phía trước với tốc lực tối đa, ra khỏi màn sương mù mịt, và tăng tốc về hướng Tây giữa tiếng xích lạch cạch và những con chiến mã đang phi nước đại. Một hoặc hai phút trôi qua, rồi sau đó một đội bộ binh xuất hiện, tiến lên theo hai hướng – đôi mắt của các chiến binh rực lửa, đôi chân họ chạm vào nền đất hùng dũng như những nhát búa dữ dội, và quân trang họ lấp lánh qua làn sương mù. Trong khi đội quân ấy đi qua trước mặt ông, trên đường ra chiến trận và có lẽ đến với tử thần, – tuyệt vời biết bao khi chứng kiến sức mạnh khôn cùng và lòng dũng cảm đáng phục, hoàn hảo biết bao khi nhận thấy biểu tượng của một chủng tộc sẽ chinh phục và giành chiến thắng, hoặc sẽ diệt vong trong máu và đất bùn Nietzsche bất chợt lóe lên ý nghĩ rằng ý chí sống cao nhất không thể biểu hiện trong một “cuộc đấu tranh sinh tồn” khốn khổ, mà là trong ý chí chiến đấu, một ý chí quyền lực, một ý chí chế ngự! Đây được xem là câu chuyện hình thành quan niệm đầu tiên của Nietzsche về nguyên lý căn nguyên của toàn bộ triết học ông, và mười hai năm sau, trong cuốn Zarathustra đã nói như thế, ta thấy ông giải thích rằng:

“Nơi nào có sinh thể, nơi đó có Ý chí quyền lực; thậm chí trong ý chí của người làm nô ta cũng tìm thấy ý chí muốn làm chủ”“Chỉ nơi nào có sự sống, nơi ấy cũng có ý chí: không phải là Ý chí Sự sống, mà ta sẽ nói với ngươi, đó là Ý chí quyền lực!”“Có nhiều thứ một sinh thể cho là cao hơn cả bản thân sự sống; nhưng từ nhận định ấy vẫn vang lên tiếng vọng – Ý chí quyền lực!” [1] .

Ba năm sau, trong Bên kia thiện ác, ta thấy những dòng sau đây:

“Các nhà tâm lý học nên suy xét thận trọng trước khi cho rằng bản năng tự bảo tồn là xung lực trọng yếu của sinh thể. Trước hết, sinh thể có xu hướng phóng xuất sinh lực nội tại – đời sống chỉ là ý chí khát vọng quyền lực -: bản năng tự bảo tồn chỉ là hệ quả gián tiếp và thường xuyên xuất hiện nhất mà thôi” [2].

Tuy nhiên, trong tập sách này, và cả tập sau của nó, ta sẽ thấy một Nietzsche chín muồi hơn, tỉnh táo hơn, và có lẽ sâu sắc hơn so với những tác phẩm kể trên. Mọi thái độ yêu mến cũng như căm ghét dành cho ông mà ta biết được sẽ xuất hiện trở lại trong tác phẩm này; nhưng ở đây dường như ông vượt lên trên tất cả những điều đó; dù từng phát biểu những lý tưởng của mình một cách quyết liệt và dứt khoát, nhưng bây giờ ông bàn luận với một tâm thái hài hước, tỉ mỉ và chi tiết, và sẵn sàng dành cho các đối thủ của một sự lắng nghe điềm tĩnh và tôn trọng. Chẳng hạn, thái độ khoan dung của ông dành cho Kitô giáo ở các trang 8. 9, 107, 323 [3] , là một điển hình, và sự mô tả rõ ràng của ông về những gì ta phải hiểu qua khái niệm “lòng trắc ẩn” ở trang 293 chắc chắn sẽ mang lại một sự cương quyết và kiên nhẫn để dõi theo từng bước lập luận của ông trong tác phẩm này. Quyển Một dường như không được sắp xếp hay được xử lý gọn gàng như Quyển Hai; nó mang tính phác thảo và nhiều tính tư biện hơn cuốn hai. Dù vậy, nó bao gồm nhiều vấn đề cực kỳ thú vị, khi nó nỗ lực truy nguyên những yếu tố của Chủ nghĩa hư vô – như là hệ quả của những giá trị Kitô giáo – trong mọi định chế ngày nay của chúng ta.

Trong Quyển Hai, Herbert Spencer đôi lần bị phê phán, nhất là ở trang 237, dù Nietzsche không nêu đích danh, nhưng ta thấy rõ hàm ý của ông. Ở đây, Nietzsche hoàn toàn khước từ mọi ý tưởng về một nền luân lý cá nhân luận, và phát biểu một cách thận trọng rằng triết học của ông hướng tới một trật tự thứ bậc mới.

Dường như đối với một vài người, luân lý được nghiên cứu một cách thiếu cẩn trọng trong cả hai quyển sách; nhưng, ở phương diện này, hẳn họ đã quên rằng Nietzsche không chỉ đưa ra một lập trường nhất quyết nghiêng về con người kiệt xuất, mà ông còn tin rằng mọi nền luân lý chính là một hệ thống bao gồm những đánh giá do những hoàn cảnh sống của một loài quy định. Do đó, ở trang 107 ông bảo: “Vượt qua thiện và ác – chắc chắn như vậy; nhưng, chúng tôi nhấn mạnh vào sự bảo tồn vô điều kiện và chặt chẽ của luân lý-bầy đàn”; và trang 323: “Giả sử người mạnh mẽ là ông chủ xét về mọi phương diện, thậm chí trong việc phán định: ta thử nỗ lực và suy tư xem thái độ của họ về bệnh tật, khổ đau và sự hy sinh sẽ như thế nào! Sự tự-rẻ mạt bản thân mình của kẻ yếu nhược sẽ là kết quả: họ sẽ khiến năng lực tột cùng của mình tiêu tan và trừ tiệt bản tính của mình. Điều đó có đáng mong muốn không? Phải chăng ta mong muốn một thế giới hoàn toàn thiếu vắng sự tinh tế, sự chu toàn, sự minh triết và sự linh hoạt – thật ra là toàn bộ những gì ảnh hưởng lên kẻ yếu nhược?”

Từ đoạn văn trên, ta thấy rõ Nietzsche chỉ phản đối sự ảnh hưởng của kiểu luân lý – bầy đàn ở bên ngoài bầy đàn – tức là, đám người thóa mạ những người kiệt xuất và cao quý. Trong khi phần lớn các nhà triết học trước ông đều là những “nhà vị tha” của tầng lớp thấp, Nietzsche có lẽ phải được gọi là nhà vị tha của những người kiệt xuất, của những trường hợp duyên may trong quần thể người. Với “những sự đa dạng” như vậy, ông cho rằng nền luân lý của Kitô giáo đã làm tất cả những gì nó có thể, và dù không hề muốn xem nhẹ giá trị của nó trong quá khứ, nhưng ông nhận ra rằng ngày nay, trong mọi trường hợp, nó chứng tỏ một hiểm họa không hề nhỏ. Do đó, với Goethe, “Giả thuyết chỉ là các bộ phận của một giàn giáo được dựng lên xung quanh một tòa nhà trong quá trình thi công, và sẽ được dỡ bỏ ngay khi tòa nhà hoàn tất. Đối với người thợ nề, chúng là những vật dụng tất yếu phải có; nhưng ông ta phải cẩn trọng để không nhầm lẫn cái giàn giáo là tòa nhà” [4] .

Điều đáng tiếc là Nietzsche chưa bao giờ có thể hoàn tất công trình cả đời của mình. [Nhưng] những tản văn được tập hợp trong tập I và II của Ý chí quyền lực có thể được xem là đầy đủ để chuyển tải ý tưởng chính của toàn bộ triết học ông, chỉ có điều giá như tác giả của nó còn đủ sự minh mẫn để xếp đặt và hoàn tất nó theo dự định ban đầu của mình.

Hi vọng rằng ngày nay ta đủ tỉnh táo để bình tâm đón nhận sự phê phán nghiêm túc và thấu đáo, ngay cả từ người được yêu quý nhất trong các định chế của ta, và một người cải cách trung thực và chân thành hẳn không còn nhận thức nơi chúng ta có một thành kiến nào chống lại ông nữa, nhất là khi ông mang đến một Tin mừng – “Ý chí quyền lực” – tức là một sự kiểm chứng về sức mạnh của ta hướng tới ý chí.

ANTHONY M.LUDOVICI

1. Bản dịch của Trần Xuân Kiêm: “Bởi vì cái gì không hiện hữu thì không thể ước ao hiện hữu; và cái gì đang hiện hữu thì làm thế nào nó lại ước ao hiện hữu nữa? Chỉ nơi nào có đời sống, nơi đó mới có ý chí: không phải ý chí khao khát sự sống, nhưng là ý chí cường lực, như ta đã giảng dạy cho mi. Có nhiều sự việc mà sinh thể cho là cao hơn cả đời sống, nhưng trong chính sự phán định giá trị ấy, vẫn ngân vang lên giọng nói sang sảng của ý chí quyền lực!” (đoạn 35: về sự chiến thắng tự thân).

2. Theo bản dịch của Nguyễn Tường Văn, Nxb. Văn hóa-Thông tin, tr.28.

3. The Will to Power (1910), An Attempted Transvaluation of All Values, by Anthony M. Ludovici, Vol 1 (Books I and II), In Volume 14 of the Complete Works of Nietzsche. Edited by Dr. Oscar Levy. Publisher: T.N.Foulis, Edinburgh/London.

1. Naturwissenschaft im Allgemeinen (Weimar Edition, i. II, p.132) – Anthony M.Ludovici (A.M.L).

Trích đoạn hay trong Ý Chí Quyền Lực

“Các triết gia và các đạo đức gia tưởng rằng họ thoát khỏi sự suy đồi bằng cách chống lại nó, đó là một sự tự lừa phỉnh mình. Điều ấy vượt quá ý chí của họ; tuy nhiên ít khi họ thừa nhận nó, người ta sau đó phát hiện ra rằng họ là một trong những kẻ thúc đẩy sự suy đồi mạnh mẽ nhất”.

(Trích: Phê phán nhà triết học)

“Tôi không muốn cải đối bất kỳ ai đến với triết học: điều cần thiết và có lẽ đáng khao khát chính là việc triết gia nên là một loài cây hiếm. Chẳng có gì đáng tởm với tôi hơn lời tán dương thể lối học giả dành cho triết học như ta thấy nơi Seneca và Cicero. Triết học không có nhiều điểm chung với đức hạnh. Tôi tin mình được quyền phát biểu rằng thậm chí nhà khoa học cũng là một người khác biệt tận căn so với nhà triết học. Điều tôi hằng mong mỏi là khái niệm đích thực về “triết gia” không tiêu vong hoàn toàn tại nước Đức. Có rất nhiều kẻ nửa vời tại Đức sẽ hớn hở tiết lộ vẻ ngớ ngẩn của mình bên dưới những danh xưng cao quý như vậy.”

[…]

“Tôi phải đặt ra lý tưởng cao nhất về một triết gia. Học vấn không phải là tất cả! Học giả là con cừu trong vương quốc của học vấn; ông ta mày mò nghiên cứu vì ông ta được dạy phải làm như vậy, và vì những người khác trước ông cũng làm vậy.”

[…]

“Sự quy ước sai lầm về các triết gia: người ta đánh đồng họ với các nhà khoa học. Như thể giá trị của sự vật đã có sẵn nơi chúng và họ phải nắm chặt trong tay! Trong chừng mực nào những nghiên cứu của họ phải được tiến hành dưới ảnh hưởng của những giá trị đã thịnh hành (họ căm ghét thân xác, v.v…)? Schopenhauer bàn về luân lý (miệt thị thuyết công lợi). Cuối cùng, sự nhầm lẫn ấy đi xa đến mức Thuyết Darwin cũng được xem là triết học, và như thế ngày nay quyền lực đã chuyển sang nhà khoa học”.

(Trích: Phê phán triết học)

Mục lục sách Ý Chí Quyền Lực – Một Nỗ Lực Đảo Hoán Mọi Giá Trị

  • NỘI DUNG TẬP 1
  • Lời tựa cho bản dịch tiếng Anh.
  • Lời tựa của Nietzsche
  • Quyển Một: CHỦ NGHĨA HƯ VÔ CHÂU ÂU MỘT KHÁI LƯỢC
  • I. CHỦ NGHĨA HƯ VÔ
    • 1. Chủ nghĩa hư vô như là hệ quả của những phán định và diễn giải về cuộc đời đã thịnh hành từ trước đến nay
    • 2. Những nguyên nhân khác của chủ nghĩa hư vô
    • 3. Sự vận động của chủ nghĩa hư vô chính là biểu hiện của sự suy đồi
    • 4. Cuộc khủng hoảng: Chủ nghĩa hư vô và ý niệm về sự quy hồi
  • II. VỀ LỊCH SỬ CỦA CHỦ NGHĨA HƯ VÔ CHÂU ÂU
    • (A) Quang cảnh u ám của thời hiện đại
    • (B) Những thế kỷ đã qua
    • (C) Những dấu hiệu của sức mạnh tăng tiến
  • Quyển Hai: PHÊ PHÁN NHỮNG GIÁ TRỊ CAO TỘT THỊNH HÀNH ĐẾN NGÀY NAY
  • I. PHÊ PHÁN TÔN GIÁO
    • 1. Về nguồn gốc của các tôn giáo
    • 2. Về lịch sử của Kitô giáo
    • 3. Những lý tưởng của Kitô giáo
  • II. PHÊ PHÁN LUÂN LÝ
    • 1. Nguồn gốc của những phán định luân lý 2. Bầy đàn
    • 3. Những nhận định tổng quát về luân lý
    • 4. Đức hạnh được tạo ra như thế nào để thống trị?
    • 5. Lý tưởng luân lý
      (A) Phê phán những lý tưởng
      (B) Phê phán “Con người lương thiện”, thánh nhân (C) Về lời phỉ báng đối với cái gọi là những Phẩm chất Xấu xa……..
      (D). Phê phán những khẩu ngữ: Cải thiện, Hoàn hảo, Nâng cao ….
    • 6. Những đánh giá tổng kết về phê phán luân lý.
  • III. PHÊ PHÁN TRIẾT HỌC..
    • 1. Những nhận định tổng quát.
    • 2. Phê phán triết học Hy Lạp.
    • 3. Chân lý và sai lầm của các triết gia.
    • 4. Những đánh giá tổng kết về phê phán triết học..
  • BẢNG TRỎ THUẬT NGỮ VÀ TÊN NGƯỜI

Thông tin tác giả Friedrich Nietzsche

Friedrich Nietzsche

Sinh (1844 – 1900) là một triết gia thiên tài, những ý tưởng mang tính cách mạng của ông đã thay đổi cách chúng ta nghĩ về triết học, tôn giáo, đạo đức và đời sống. Bất kỳ ai khi nghe đến Nietzsche đều biết rằng vị triết gia này đã từng tuyên bỏ một cách sắc lẹm “Chúa đã chết” [God is dead]. Điều đó có nghĩa chúng ta-con người cần phải tự mình tạo ra giá trị, ý nghĩa sống và tự chịu trách nhiệm cho đời mình.

Một số tác phẩm quan trọng:

  • The Birth of Tragedy (1872)
  • Human, All Too Human (1878)
  • The Gay Science (1882)
  • Thus Spoke Zarathustra (1883)
  • Beyond Good and Evil (1886)
  • On the Genealogy of Morality (1887) Twilight of the Idols (1888)
  • The Anti-Christ (1888)
  • The Will to Power (various unpublished manuscripts edited by his sister Elisabeth; not recognized as a unified work after ca 1960).

. Ý Chí Quyền Lực – Một Nỗ Lực Đảo Hoán Mọi Giá Trị . . – . | .

Cẩm Nang Nghiên Cứu Khoa Học Từ Ý Tưởng Đến Công Bố

Giới thiệu sách Cẩm Nang Nghiên Cứu Khoa Học Từ Ý Tưởng Đến Công Bố

Cuốn sách “Cẩm nang nghiên cứu khoa học từ ý tưởng đến công bố” được soạn ra để giúp cho các bạn muốn dấn thân vào công việc nghiên cứu khoa học. Nhiều học sinh và sinh viên thường tự hỏi bắt đầu nghiên cứu khoa học từ đâu, ý tưởng nghiên cứu xuất phát từ nguồn nào, phương pháp nghiên cứu ra sao, và công bố kết quả ngiên cứu ở đâu. Đó là những câu hỏi cơ bản trong qui trình nghiên cứu khoa học. Qua 21 chương sách, tác giả sẽ giải đáp những câu hỏi trên và kèm theo những ví dụ thực tế giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về qui trình nghiên cứu khoa học.

“Khoa học không bao giờ dừng lại trong hành trình đi tìm sự thật, bởi vì khoa học không bao giờ tuyên bố nó đã hoàn thành sứ mệnh đó. Khoa học là một nghành nghề khai hóa, truyền bá cái mà chúng ta gọi là “văn minh”, và khoa học đặt sự thật trên hết và trước hết, trước tất cả những quyền lợi cá nhân.”

Thông tin tác giả Nguyễn Văn Tuấn

Nguyễn Văn Tuấn

Tác giả là một nhà nghiên cứu cao cấp (Senior Principal Fellow), đứng đầu một laboratory chuyên nghiên cứu về di truyền và dịch tễ học loãng xương của Viện nghiên cứu Y khoa Garvan (Australia). Ông còn là Giáo sư y khoa của Đại học New South Wales (Australia); Giáo sư Adjunct về dịch tễ học của Trường Y, Đại học Notre Dame, Australia. Ở Việt Nam, tác giả là Giám đốc chương trình nghiên cứu về cơ và xương, Giáo sư Xuất sắc của Trường Đại học Tôn Đức Thắng.

Ông là tác giả hoặc đồng tác giả của hơn 300 công trình nghiên cứu khoa học được công bố trên nhiều tập san nổi tiếng trên thế giới như Nature, Science, Nature Genetics, JAMA, Lancet. _New England Journal of Medicine, V.V.. Những nghiên cứu của tác giả có tác động lớn, với hơn 30000 trích dẫn, và chỉ số H của tác giá là 87. Ông là một nhà nghiên cứu nổi tiếng trên thế giới về loãng xương, và một trong những kết quả nghiên cứu của ông được phát triển thành một môi hình tiên lượng gãy xương “Garvan Fracture Risk Calculator” (WWW.fractureriskcalculator.Com) được các bác sĩ khắp thế giới sử dụng trong lâm sàng. Ở Việt Nam, tác giả đã từng giảng dạy về y học thực chứng và phương pháp nghiên cứu khoa học trong suốt 20 năm qua cho hàng ngàn học viên trên khắp miền đất nước. Ông cũng đã xuất bản 12 cuốn sách ở Việt Nam về y khoa, giáo dục, khoa học và nghiên cứu khoa học.

Tác giả từng nhận nhiều giải thưởng trong và ngoài nước: Giải thưởng của Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam năm 2004, giải thưởng “Vinh danh Nước Việt năm 2005, Giải Sách Hay (2013), một số giải thưởng của Ủy ban Nhân dân TPHCM, Hội loãng xương TPHCM, và Hội Y học TPHCM; Huân chương Nhà nghiên cứu ngoại hạng của Đại học Công nghệ Sydney, Úc: Giải thưởng nghiên cứu xuất sắc của Hội loãng xương Hoa Kỳ; Giải thưởng luận án tiến sĩ xuất sắc của Đại học New South Wales, VV.. Năm 2018, ông được bầu làm Viện sĩ của American Society for Bone and Mineral Research, và năm 2019 ông được bầu làm Viện sĩ Viện hàn lâm y khoa Úc (Australian Academy of Health and Medical Sciences).

. Cẩm Nang Nghiên Cứu Khoa Học Từ Ý Tưởng Đến Công Bố . . – . | .

Lão Tử Tinh Hoa

Giới thiệu sách Lão Tử Tinh Hoa

Lão Tử là người huyện Khổ, nước Sở, sống trong thời Xuân Thu Chiến Quốc. Tương truyền ông là người viết bộ sách Đạo Đức Kinh, chủ yếu bàn về Đạo học và cách sống để hòa hợp với Đạo.

Ở Việt Nam, có rất nhiều nhà nghiên cứu đã dịch và bình chú về cuốn Đạo Đức Kinh của Lão Tử. Nhờ những cách hiểu và khám phá mới mẻ của mỗi nhà nghiên cứu mà nội dung quyển Đạo Đức Kinh ngày càng trở nên phong phú và nhiều màu sắc.

Nhà xuất bản Trẻ xin giới thiệu đến quý độc giả hai cuốn sách Lão Tử Đạo Đức Kinh và Lão Tử tinh hoa. Lão Tử Đạo Đức Kinh được học giả Nguyễn Duy Cần dịch trực tiếp từ bản gốc tiếng Trung Quốc, có kèm theo phần chú giải để độc giả tiện theo dõi. Lão Tử tinh hoa là cuốn sách bàn rộng ra về những nội dung cốt lõi của Đạo Đức Kinh. Trân trọng giới thiệu đến quý độc giả cả nước.

 

Mục lục sách Lão Tử Tinh Hoa

  • Lời Nhà xuất bản
  • PHẦN THỨ NHẤT
    • I. Lược sử Lão Tử
    • II. Sách của Lão Tử: Đạo Đức Kinh
  • PHẦN THỨ HAI
    • I. Phần tổng quan
    • II. Phần phân tích
  • PHẦN THỨ BA

Thông tin tác giả Thu Giang Nguyễn Duy Cần

Thu Giang Nguyễn Duy Cần

Thu Giang Nguyễn Duy Cần tên thật là Nguyễn Duy Cần (1907 – 1998), nguyên quán: làng Điều Hòa, tổng Thuận Trị, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (nay là thành phố Mỹ Tho, thuộc tỉnh Tiền Giang). Ông làm nghề viết sách, dạy học, lương y, nghiên cứu Đạo học, Kinh Dịch, với các biệt hiệu: Thu Giang, Hoàng Hạc, Bảo Quang Tử… Ông còn là một học giả, nhà biên khảo và trước tác kỳ cựu vào bậc nhất Việt Nam giữa thế kỷ 20. Sự nghiệp nghiên cứu và trước tác của ông bắt đầu từ năm 1931 với việc xuất bản quyển Triết học đầu tiên “Toàn chân”, gây nên một cuộc bút chiến sôi nổi trên báo Mai. Trong những năm sau đó, ông tiếp tục cho xuất bản các tác phẩm khá đều đặn. Ông nổi bật không chỉ về số lượng tác phẩm đồ sộ mà còn ở độ sâu học thuật và sức ảnh hưởng về mặt tư tưởng đến các tầng lớp thanh niên trí thức việt nam.

. Lão Tử Tinh Hoa . . – . | .

Chu Dịch Huyền Giải

Giới thiệu sách Chu Dịch Huyền Giải

Chu Dịch huyền giải của tác giả Thu Giang Nguyễn Duy Cần trình bày ứng dụng kinh Dịch vào việc nhận định những hiện tượng xã hội trong thời hiện đại. Việc ứng dụng  thuyết Tứ Tượng trong kinh Dịch để phân tích những hiện tượng xã hội diễn ra hàng ngày.

Chu Dịch huyền giải là một tác phẩm “ứng dụng Dịch”, bổ sung vào tủ sách về Triết học phương Đông của tác giả Thu Giang Nguyễn Duy Cần nhằm giúp bạn đọc có được cái nhìn đầu tiên đúng đắn về ứng dụng Kinh Dịch vào quan sát xã hội, con người. Từ đó, mục đích cuốn sách nhằm giúp người đọc có thể đưa ra những phát đoán và dự báo đúng bản chất của sự vật phù hợp với tinh thần biện chứng Đông Phương.

Xuyên suốt nội dung của cuốn sách Chu Dịch Huyền Giải là việc đưa ra lập luận sáng rõ và những cơ sở trong việc ứng dụng Nhất nguyên luận hay còn gọi chung là tinh thần của Đạo học.

 

Mục lục sách Chu Dịch Huyền Giải

  • THAY LỜI BẠT
  • PHỤ LỤC VÀ PHỤ CHÚ
    • I. Trường xuân bất lão
    • II. Thần thông đạo pháp
    • III. Tinh thần Bảo thủ và cấp tiến của Âm Dương
    • IV. Luật quân bình của Âm Dương
    • V. Âm dương nơi con người
    • VI. Tại sao trong “thời hắc ám”
    • các giáo phái mọc lên như nấm?
    • VII. Nhập thế và xuất thế
    • VIII. Văn minh kỹ thuật và con người trong thế giới ngày nay
    • IX. Sự gia tăng nhịp độ trong tiến bộ kỹ thuật
    • X. Đi đến một buổi bình minh
    • XI. Nhịp sống của Đạo
    • XII. Người trong “thời kim ngân”
    • XIII. Thời Trị và thời Loạn
    • XIV. Hiện tượng của thời hắc ám
    • XV. Thanh bần
  • GHI CHÚ
  • SÁCH THAM KHẢO

Thông tin tác giả Thu Giang Nguyễn Duy Cần

Thu Giang Nguyễn Duy Cần

Thu Giang Nguyễn Duy Cần tên thật là Nguyễn Duy Cần (1907 – 1998), nguyên quán: làng Điều Hòa, tổng Thuận Trị, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (nay là thành phố Mỹ Tho, thuộc tỉnh Tiền Giang). Ông làm nghề viết sách, dạy học, lương y, nghiên cứu Đạo học, Kinh Dịch, với các biệt hiệu: Thu Giang, Hoàng Hạc, Bảo Quang Tử… Ông còn là một học giả, nhà biên khảo và trước tác kỳ cựu vào bậc nhất Việt Nam giữa thế kỷ 20. Sự nghiệp nghiên cứu và trước tác của ông bắt đầu từ năm 1931 với việc xuất bản quyển Triết học đầu tiên “Toàn chân”, gây nên một cuộc bút chiến sôi nổi trên báo Mai. Trong những năm sau đó, ông tiếp tục cho xuất bản các tác phẩm khá đều đặn. Ông nổi bật không chỉ về số lượng tác phẩm đồ sộ mà còn ở độ sâu học thuật và sức ảnh hưởng về mặt tư tưởng đến các tầng lớp thanh niên trí thức việt nam.

. Chu Dịch Huyền Giải . . – . | .

Xã Hội Tỉnh Táo

Giới thiệu sách Xã Hội Tỉnh Táo

15 năm sau cuộc điều tra về ý nghĩa của tự do với con người hiện đại trong tác phẩm “Trốn thoát tự do”, nhà phân tâm học nổi tiếng người Đức Erich Fromm sẽ tiếp tục đưa ra khám phá quan trọng về những căn bệnh sâu xa của xã hội hiện đại trong cuốn sách “Xã hội tỉnh táo”.

Nội dung chính của  cuốn sách Xã Hội Tỉnh Táo

Không chỉ một bệnh nhân ở nhà thương điên tin chắc rằng mọi người đều điên, chỉ riêng anh ta tỉnh. Còn chúng ta thì sao?

Ai cũng cho rằng chúng ta, những người sống ở phương Tây thế kỷ 20, đều vô cùng tỉnh táo. Ngay cả khi thực tế là rất nhiều người trong chúng ta mắc các chứng tâm thần ít nhiều nghiêm trọng cũng chẳng khiến ai nghi ngờ về tiêu chuẩn sức khỏe tâm thần chung. Liệu chúng ta có thể chắc rằng mình đang không tự lừa mình dối người?

15 năm sau cuộc điều tra về ý nghĩa của tự do với con người hiện đại trong tác phẩm “Trốn thoát tự do”, nhà phân tâm học nổi tiếng người Đức Erich Fromm sẽ tiếp tục đưa ra khám phá quan trọng về những căn bệnh sâu xa của xã hội hiện đại trong cuốn sách “Xã hội tỉnh táo” của mình.

Ở tác phẩm này, Erich Fromm tiến xa hơn và đặt ra câu hỏi: “Liệu một xã hội có thể bị bệnh?” Ông cho thấy rằng điều đó có thể xảy ra, lập luận rằng văn hóa phương Tây đang đắm chìm trong “bệnh lý của sự bình thường”, ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của các cá nhân.

Trong “Xã hội tỉnh táo”, Fromm phê bình và phân tích tâm lý xã hội tư bản công nghiệp hiện đại và những công dân nhất định bị tha hóa của nó. Nhưng hơn thế, ông cũng đưa ra những gợi ý để vận hành một xã hội lành mạnh, tỉnh táo — ý tưởng rằng “tiến bộ chỉ có thể xảy ra khi đồng thời thay đổi các lĩnh vực kinh tế, xã hội-chính trị và văn hóa; nếu chỉ giới hạn tiến bộ trong một lĩnh vực tức là hủy hoại tiến bộ ở mọi lĩnh vực”.

Bởi vậy, sâu xa hơn một “bản cáo trạng”, đây là cuốn sách “dũng cảm với mục tiêu đạo đức cao cả”, hướng về tình yêu và tự do của con người chúng ta.

 

Đánh giá/nhận xét của chuyên gia về cuốn sách Xã Hội Tỉnh Táo

“Một đóng góp xuất sắc cho bộ sưu tập ngày càng nhiều những phản ánh tâm lý xã hội về thời hiện đại.” – The Washington Post

“Người ta bị mê hoặc từ trang này sang trang khác bởi tính sắc bén của phân tích, tính cụ thể của cách trình bày và vẻ đẹp của phong cách.” – Paul Tillich

“Một cuốn sách dũng cảm với mục tiêu đạo đức cao cả… một bản cáo trạng không khoan nhượng đối với xã hội đương thời.” – Guide to Psychiatric and Psychological Literature

“Tư tưởng của Fromm xứng đáng nhận được sự chú ý quan trọng của tất cả những người quan tâm đến thân phận con người và tương lai của nhân loại.” – The Washington Post

Trích đoạn hay trong cuốn sách Xã Hội Tỉnh Táo

  • Ai cũng cho rằng chúng ta, những người sống ở phương Tây thế kỷ 20, đều vô cùng tỉnh táo. Ngay cả khi thực tế là rất nhiều người trong chúng ta mắc các chứng tâm thần ít nhiều nghiêm trọng cũng chẳng khiến ai nghi ngờ về tiêu chuẩn sức khỏe tâm thần chung. Chúng ta chắc chắn rằng đưa ra các phương pháp vệ sinh tinh thần tốt hơn sẽ càng thêm cải thiện tình trạng sức khỏe tâm thần, và chúng ta xem các rối loạn tâm thần hoàn toàn là các sự cố cá nhân, có thể với chút ngạc nhiên khi những sự cố này lại xảy ra quá nhiều ở một nền văn hóa được cho là rất tỉnh táo. (p. 15)
  • Chúng ta đã giảm giờ làm trung bình xuống còn một nửa so với một trăm năm trước. Thời gian rảnh rỗi của chúng ta ngày nay nhiều hơn mức tổ tiên ông cha ta dám mơ ước. Nhưng điều gì đã xảy ra? Chúng ta không biết cách sử dụng số thời gian rảnh mới giành được; chúng ta cố gắng giết số thời gian đó rồi mừng rỡ khi một ngày nữa đã trôi qua. (tr. 18)
  • Thế nhưng rất nhiều bác sĩ tâm thần và nhà tâm lý học từ chối nghĩ về quan điểm: xã hội nói chung có thể đang thiếu sự tỉnh táo. Họ cho rằng vấn đề sức khỏe tâm thần trong xã hội chỉ là một số cá nhân “không thích ứng được” chứ không phải do chính nền văn hóa không thể tự điều chỉnh. Cuốn sách này bàn tới vấn đề thứ hai; không phải bệnh lý cá nhân, mà là bệnh lý của tính bình thường, đặc biệt với bệnh lý của xã hội phương Tây đương đại. (tr. 19)
  • … [T]uyên bố rằng con người có thể sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào chỉ đúng một nửa; phải bổ sung thêm một tuyên bố khác: nếu sống trong những hoàn cảnh trái với bản chất của mình cũng như những yêu cầu cơ bản cho sự phát triển và sự lành mạnh của con người, anh ta không thể không phản kháng; chắc hẳn anh ta sẽ sa đọa và lụi tàn, hoặc sẽ tạo ra những điều kiện phù hợp hơn với các nhu cầu của mình. (tr. 37)
  • Sự tồn tại của động vật là một sự hài hòa giữa con vật và tự nhiên; tất nhiên, không theo nghĩa các điều kiện tự nhiên thường không đe dọa động vật và không ép nó phải chiến đấu quyết liệt để tồn tại, mà theo nghĩa động vật được tự nhiên trang bị để đương đầu với chính những hoàn cảnh nó gặp phải, giống như hạt giống của cây được tự nhiên phú cho khả năng tận dụng các điều kiện đất đai, khí hậu, v.v., nhờ thế thích nghi trong quá trình tiến hóa. (tr.41)
  • Chỉ có duy nhất một đam mê thỏa mãn nhu cầu hợp nhất bản thân với thế giới, cùng lúc có được với cảm giác toàn vẹn và tính cá nhân, đó chính là tình yêu. Tình yêu là kết hợp với một người, hay một thứ, bên ngoài mình, với điều kiện giữ được sự riêng biệt và toàn vẹn của chính bản thân người đó.
  • Người lớn nào cũng cần giúp đỡ, hơi ấm, sự bảo vệ theo nhiều cách khác nhau, thế nhưng ở nhiều chỗ lại tương tự với nhu cầu của trẻ nhỏ. Liệu có đáng ngạc nhiên khi phát hiện ra người lớn bình thường khao khát sâu kín có được sự an toàn và có nguồn cội mà mối quan hệ với người mẹ từng cho anh ta? Phải chăng không thể mong đợi anh ta từ bỏ khao khát mãnh liệt ấy, trừ phi anh ta tìm cách khác để bám rễ?
  • Xã hội có thể có cả hai chức năng; nó có thể thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của con người, và cũng có thể cản trở nó; thực tế hầu hết xã hội thực hiện cả hai, và câu hỏi đặt ra chỉ là ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của chúng được thực hiện tới mức nào và theo các hướng nào. (tr.113)
  • Con người tự do nhất định sẽ bất an; con người biết suy nghĩ nhất định sẽ bất an. (tr. 290)

Câu Quote hay trong cuốn sách Xã Hội Tỉnh Táo

  1. Nhiệm vụ của “ngành khoa học con người” là cuối cùng rút ra một mô tả chính xác về những gì xứng đáng được gọi là bản chất con người. (tr. 28)
  2. Tương tự như con người biến đổi thế giới xung quanh, anh ta cũng biến đổi bản thân trong quá trình lịch sử. Có thể nói, con người tự sáng tạo ra chính mình. (tr. 29)
  3. Chuyện hàng triệu người có cùng những thói hư tật xấu không khiến những thói tật đó thành đúng đắn, họ có cùng những sai lầm không khiến những sai lầm đó thành lẽ phải, và hàng triệu người có cùng những dạng bệnh lý tâm thần không khiến những người này tỉnh táo. (tr. 31)
  4. Con người là động vật duy nhất có thể cảm thấy buồn chán, có thể cảm nhận mình bị đuổi khỏi Thiên Đàng. Con người là động vật duy nhất nhận thấy sự tồn tại của mình là một vấn đề phải giải quyết và không thể trốn thoát. Anh ta không thể quay lại trạng thái hòa hợp với tự nhiên ở giai đoạn tiền nhân loại; anh ta phải tiếp tục phát triển lý trí cho tới khi trở thành người làm chủ tự nhiên và chính bản thân.
  5. Như vậy, sự ra đời, theo nghĩa thông thường của từ này, chỉ là sự khởi đầu của việc sinh ra theo nghĩa rộng hơn. Cả cuộc đời của một cá nhân chẳng là gì ngoài quá trình sinh ra chính mình; thực vậy, chúng ta sẽ được sinh ra trọn vẹn khi chúng ta chết đi – mặc dù số phận đáng buồn của phần lớn các cá nhân là chết trước khi được sinh ra.
  6. Trong hành động yêu, tôi là một với Tất cả, nhưng tôi vẫn là chính tôi, một con người phàm tục, hữu hạn, riêng biệt, độc nhất.
  7. Sự tiến hóa của loài người là kết quả của sự phát triển văn hóa, chứ không do sự thay đổi hữu cơ.
  8. Các mối quan hệ giữa con người trong thời chúng ta chẳng có nhiều tình yêu hay hận thù. Đúng hơn là có sự thân thiện giả tạo, và một sự công bằng cực kỳ giả tạo, nhưng đằng sau bề ngoài đó là sự xa cách và hờ hững. (tr. 207)
  9. Máy móc thay vì thế cho năng lượng con người, thì con người trở thành thứ thay thế cho máy móc. Có thể định nghĩa lao động của con người là thực hiện những hành vi mà máy móc chưa thể thực hiện được. (tr. 267)

Thông tin tác giả Erich Fromm

Erich Fromm

Sinh (1900 -1980) là nhà phân tâm học người Đức, người nằm giữa giai đoạn chuyển tiếp từ Phân tâm học của Sigmund Freud đến tân Freud, người đã kết hợp lý thuyết của Freud và học thuyết của Karl Marx để

. Xã Hội Tỉnh Táo . . – . | .